Cá voi xanh: những điều ít người biết về cá ông
Cá voi xanh hay còn gọi là cá ông có lẽ là sinh vật lộng lẫy và to lớn nhất trên hành tinh này. Kích thước khổng lồ và tập tính sống đơn độc của cá voi xanh hẳn sẽ khiến mọi người ngạc nhiên và thích thú ngay cả khi bạn không phải là những người yêu động vật. Bên cạnh kích thước cực khủng thì loài cá vĩ đại nhất của đại dương còn ẩn chứa nhiều điều thú vị khiến nhiều người phải ngạc nhiên khi biết đến. Dưới đây là những điều có thể bạn chưa biết về cá ông.
1) Ngay cả khi khủng long chưa tuyệt chủng, con cá voi xanh vẫn là động vật lớn nhất từng tồn tại trên Trái Đất.
Được xem là loài lớn nhất thế giới song ít ai biết được rằng những con khủng long Sauropod, với chiếc cổ dàicao quá đầungọn cây cùng với cái đuôi quá cỡvẫn phải chịu lép vế trước nhà đương kim vô địch của đại dương: Cá voi xanh. Khủng long trên cạn, con lớn nhất tính từ đầu miệng đến đuôi cũng chỉ dài từ 25 đến 40 m và nặng tới 96,4 tấn, tức là nặng chưa bằng một nửa cá ông.Một cá thể cá voi xanh trưởng thành, chiều dài cơ thểcó thể đạt từ 30 đến 33m với trọng lượng nặng 173 tấn, trường hợp nặng nhất ghi nhận tới 181 tấn. So với cá voi xanh, khủng long Sauropods rõ ràng vẫn còn “bé” lắm.
Về vấn đề này, các nhà khoa học cho biết chính việc sống trong môi trường nước cho phép cơ thể cá voi có thể duy trì được kích thước khổng lồ của mình mà không phải chịu tác động từ trọng lực, một yếu tố ảnh hưởng đến sự tiến hóa của động vật trên đất liền. Ngoài ra, cơ thể của cá voi xanh có lớp mỡ dày giúp chúng có thể nổi, giảm bớt áp lực dòng nước lêncơ thể đồ sộ mỗi khi rẽ nước di chuyển.
2) Lưỡi cá voi xanh nặng bằng một con voi rừng châu Phi và trái tim của chúng to ít nhất bằng một chiếc xe 4 bánh.
Cá voi xanh là động vật có lưỡi lớn và nặng nhất thế giớivớicân nặng khoảng 2,7 tấn. Con số này tương đương với trọng lượng của voi rừng châu Phi 6 tấn, hoặc ít nhất cũng sánh ngang với một con tê giác trưởng thành và trái tim của chúng cũng lớn ngang ngửa xe hơi. Mặc dù có khá nhiều thông tin nói về kích cỡ trái tim của cá voi xanh lớn ngang bằng một chiếc xe 4 chỗ song cho đến nay,các nhà khoa học vẫn chưa thể xác minh được một cách chính xác bởi đơn giản không hề dễ được tim của cá voi xanh. Trong một lần tình cờ, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một con cá voi xanh dài 24 m chết vì mắc cạn ở Canada và trái tim của nó sau khi được lấyra có kích thước tương đương với một chiếc xe hơi. Tuy nhiên, cần phải biết rằng đây không phải là cá thể cá ông lớn nhất từng được ghi nhận.
3) Cá voi xanh có thể ngậm 500 kg nhuyễn thể trong miệng và hấp thụ khoảng nửa triệu calo từ đó.
Cá voi xanh ăn gần như toàn bộ loài nhuyễn thể, các sinh vật nhỏ giống tôm, phù du, cá nhỏ, giáp xác và mực ống. Miệng của chúng, khi mở rộng hoàn toàn có kích thước đủ lớn để chứa tới 90 tấn thức ăn và nước. Trong suốt thời gian săn mồi, cá voi xanh sẽ bơi vào bầy sinh vật phù du, mở rộng miệng để hớp lấy một ngụm nước khổng lồ vào túi chứa thức ăn ở hàm dưới và khép miệng lại. Sau đó, nước được đẩy ra ngoài trong khi hàng ngàn sinh vật nhỏ bé được giữ lại bởi các tấm sừng hàm lọc thức ăn và sau đó cá voi xanh sẽ nuốt các sinh vật ấy vào bụng.
Trong điều kiện thông thường, một con cá voi trưởng thành có thể tiêu thụ 500 kg thức ăn, tương đương với 457.000 calo chỉ trong một lần ăn. Một con cá voi xanh trưởng thành có thể tiêu thụ tới 40 triệu con phù du mỗi ngày. Cá voi xanh là loài ăn thịt rất thông minh chỉ thườnglao vào những bầy mồi lớn bởi mỗi khi mở miệng, dòng nước sẽ làm cơ thể chúng phải chịu một áp lực rất lớn. Vì vậy, đối với những đàn phù du, nhuyễn thể nhỏ, cá voi xanh sẽ bỏ qua vì biết rằng lượng calo thu về từ lần săn mồi đó không đáng với năng lượng nó sẽ phải bỏ ra.
4) Cá voi xanh là loài động vật sinh sản theo mùa, chúng có thể bơi suốt 6 tháng mà không ăn gì chỉ để di chuyển đến vùng nước ấm hơn.
Quần thể sinh vậtphù du, các loài giáp xác nhỏ lớn nhất được tìm thấy ở Nam Cực và đây cũng là nguồn thức ăn chính cho các loài hải cẩu, chim cánh cụt, cá, mực cũng như cá voi. Vào mùa săn mồi, thường là mùa hè trong năm, những con cá voi xanh sẽ bơi đến vùng biển Nam Cực để lấp đầy cái bụng khổng lồ của chúng. Khi đã hấp thụ được năng lượng dự trữ đáng kể và nhiều hơn số mà chúng sẽ sử dụng vào mùa sinh sản, cá ông sẽ dành toàn bộ nguồn năng lượng dự trữnày để di chuyểnđếnnhững vùng biển ấm hơn, nơi nguồn thức ăn gần như rất khan hiếm.
5) Cá voi xanh con ngay từ khi sinh ra đã rất lớn, có thể nặng tới 2,5 tấn ngay khi lọt lòng mẹ, tăng 4 kg mỗi giờ và phát triển với tốc độ 4 cm mỗi ngày.
Cá voi xanh thường bắt đầu giao phối từ 5 đến 15 tuổi vào đầu mùa đông và có thời gian mang thai từ 10-12 tháng. Cá voi xanh con nặng khoảng 2,5 tấn, dài 7 mngay từ lúc mới sinh. Trong một ngày, cá con có thể uống hết khoảng từ 380 đến 570 lít sữa, tiêu thụ 4.370 kilo calo/kg nên khối lượng của nó tăng lên rất nhanh vào khoảng 90 kilôgam mỗi 24 giờ. Cá voi xanh con cai sữa khoảng 6 tháng sau sinh.
6) Với chiều dài trung bình 2,4 mét, cá voi xanh là động vật có dương vật lớn nhất trong thế giới động vật. Cá voi đực xuất gần 20 lít tinh trùng trong mỗi lần giao phối.
Cá voi xanh là động vật có dương vật lớn, dài và linh hoạt nhất từng được biết đến trong lịch sử Trái Đất. Trung bình dương vật của một con cá voi đực trưởng thành có chiều dài khoảng từ 2,4 mét đến 3 mét. Trái ngược với cơ thể dài hàng chục mét, dương vật của cá voi xanh thường rất mỏng với đường kínhtừ 30 đến 36 cm trong khi chu vi cũng chỉ khoảng 46 cm. Dương vật của cá voi đực thường ẩn bên trong cơ thể và chỉ thòi ra ngoàimỗi khi chúng bắt đầugiao phối.
7) So với các bộ phận khác trong cơ thể, bộ não của cá voi xanh rất nhỏ và chỉ nặng 6,92 kg, tức chỉ chiếm vỏn vẹn 0,007% trọng lượng cơ thể nó.
So với cơ thể có phần đồ sộ của mình thì cá voi xanh có bộ não tương đối nhỏ. Mặc dù vậy, não của chúng vẫn lớn hơn con người nhiều và đây cũng là cơ sở để các nhà khoa học tin rằng cá voi (bao gồm cả cá heo) là loài động vật biển thông minh nhất hành tinh. Khác với các loài linh trưởng thìcá voi chủ yếu sử dụng thính giác như là một phương tiện truyền thông hữu hiệu giúp chúng có thể dễ dàng giao tiếp với nhau từ rất xa.
Theo các nhà khoa học, khả năng giao tiếp bằng thính giác của các loài động vật sống dưới nước là vô cùng tuyệt vời. Đối với cá ông, từ phần xoang có thể phát ra âm thanh, chúng có thể giao tiếp và tương tác với nhau ở khoảng cách vài dặm. Dựa vào những phát các sóng âm khác nhau, cá voi có thể xác định được vị trí và kích thước của con mồi, thậm chí là bờ biển,các chướng ngại vật trên đường nó di chuyển…
Nhiều nghiên cứu khác còn cho rằng với thùy trán lớn cùng khả năng giao tiếp thần thánh đã vượt xa con người, cá voi xanh là một trong những loài động vật đã phát triển ra loại ngôn ngữ cho riêng chúng với trình độ thậm chí còn cao siêuhơn nhiều so vớicon người. Trên thực tế, cá voi có thể nhận và phát đi nhiều hơn gấp 20 lần thông tin mà chúng ta có thể nhận biết được thông qua khả năng nghe nhìn.
8) Trước đây đã có 239.000 con cá voi xanh sống ở Nam Cực. Mọi chuyện đã thay đổi từ khi súng phóng lao ra đời vào năm 1864. Phát minh này gần như đã đẩy cá voi xanh vào cảnh tuyệt chủng vào thế kỷ 20. Hiện nay, ước tính chỉ có khoảng từ 10.000 đến 25.000 cá thể cá voi xanh còn sống sót trên toàn thế giới.
Cá voi xanh rất nhanh và khỏe, do đó rất khó để bắt hay giết được chúng, đó là chưa kể đến việc kéo được một con cá đã chết vào bờ là chuyện gần như vô phương với công nghệ thời đó. Do đó, thời gian đầu người ta thường chỉ săn cá nhà táng hoặc cá voi Eubalaena chứ hiếm khi nào săn cá voi xanh. Tuy nhiên, mọi chuyện đã thay đổivào năm 1864, khi Svend Foyn, một người Na Uy đã thử săn cá voi cỡ lớn trên một con tàu hơi nước với một khẩu súng phóng lao được thiết kế đặc biệt. Sau nhiều lần thất bại, trong những năm 1870, công cụ bắt cá voi xanh đã được hoàn thiện bằng cách sử dụng một quả lựu đạn “thổi phồng” vào bên trong con cá sau khi phóng đi. Vụ nổ từ lựu đạn sẽ bơm một loại khí vào bên trong cơ thể con mồi để giữ cho nó nổi trên mặt biển giúp cho việc vận chuyển cá vào bờ trở nên dễ dàng hơn.
Phát minh này đã mở ra một thế kỷ săn bắt cá voi xanh ở hầu hết các đại dương. Cho tới lúc đấy, đã có tổng cộng 330.000 con cá voi xanh bị giết tại Nam Cực, 33.000 con tại các phần còn lại của Bán Cầu Nam, 8.200 con ở Bắc Thái Bình Dương và 7.000 con ở Bắc Đại Tây Dương. Cộng đồng cá voi xanh lớn nhất ở Nam Cực đã bị rút xuống chỉ còn 0,15% số lượng ban đầu. Lúc này, cá voi xanh trên Trái Đất gần như đã bị tuyệt chủng.
Đến năm 1966, việc săn bắt cá voi đã bị Hiệp hội nghề đánh cá voi Quốc tế cấm và những hoạt động săn bắt trái phép tại Liên Xô cuối cùng cũng chấm dứt vào thập niên 1970. Kể từ khi luật cấm săn bắt cá voi ra đời, các nỗ lực bảo tồn đã giúp quản lý và bảo vệ quần thể cá voi còn lại trên toàn thế giới. Dù là vậy nhưng cho đến nay, loài cá voi xanh vẫn phải đối mặtvới những mối đe dọa khác, trong đó bao gồm hiện tượng nóng lên toàn cầu ảnh hưởng đến nguồn thức ăn hoặc chúng cũng có thể bị thương, thậm chí chết do va chạm với tàu bè hay bị vướng vào lưới đánh cá.
9) Cá voi xanh là sinh vật sống đơn độc. Không giống như những loài cá voi khác, cá voi xanh sống một mình hoặc chỉ đi theo cặp thay vì hoạt động theo bầy.
Cá voi xanh có tập tính sống tương đối kỳ lạ. Trong điều kiện thông thường, một cá thể cá ông chỉ thíchsống một mình hoặc đôi khi là đi theo cặp, thường làmẹ với con và cặp cá voi đang trong thời kỳ sinh sản. Ngay cả khi sống theo cặp, chúng cũng không bơi sát nhau mà giữ khoảng cách vài kilômét thế nên cá voi xanh còn được xếp vào hàng những loài động vật “lịch sử” nhất thế giới.Khi tập hợp thành bầy, một quần thể cá voi xanh thường có khoảng 50 cá thểbơi khắp các vùng biển nhỏ và thường là những nơi có lượng thức ăn lớn đểcùng nhau săn mồi.
10) Cá voi xanh là loài động vật lớn nhất từng được biết đến trên thế giới. Chúng giao tiếp với nhau bằng những bài hát và có thể nghe thấy nhau từ khoảng cách hơn 1600 km.
Sống đơn độcgiữa đại dương bao la, cá voi xanh đã phát triển ra một hệ thống giao tiếp đặc biệt. Chúngphát ra những sóng âm ở tần số thấp và có thể đi qua hàng nghìn kilomet trên biển để truyền đạt thông tin đến với các cá thể khác. Tuy nhiên, các nhà khoa học cho biết thời gian gần đây, khoảng cách họ có thể nghe được các con cá voi giao tiếp với nhau đã giảm xuống chỉ còn hơn 160 km do tiếng ồn của các loại giao thông vận tải và nạn ô nhiễm tiếng ồn. Trước đó, vào năm 1940, một con cá voi xanh có thể nhận và truyền thông tin đến đồng loại từ khoảng cách hơn 1600 km.
Các nhà khoa học cũng đã tìm thấy một sự thay đổi kỳ lạ trong tần số âm thanh mà các con cá voi phát ra. Các bản ghi âm gần đây cho thấy tần số này đã giảm xuống đáng kể theo mỗi năm. Đây là một vấn đề khó lý giải bởi theo lý mà nói thì nếu cảm thấy khó nghe, cá voi xanh thường sẽ tăng tần suất âm thanh nó phát ra thay vì giảm xuống như thế.
Tiếp theo là vài bí mật nho nhỏ của cá voi xanh:
Những thông tin về loài cá khổng lồ này rất thú vị đúng không nào? Các bạn đừmg quên chia sẻ những điều ít người biết về cá ông đến bạn bè nhé!
Tags: